Chi Họ Tô Khắc xã Quảng Long huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa


      Mô hình trồng hoa ở thôn Long Đại, xã Quảng Long, Quảng Xương (Ảnh TL)

 Gia phả do ông Tô Khắc Nhượng sinh năm 1918 - một nhà nho trong họ ghi bằng chữ Hán. Năm 1998, ông Tô Khắc Nhượng cùng các ông Tô Khắc Thiện, Tô Khắc Thoan sưu tầm tư liệu viết tiếp gia phả bằng chữ quốc ngữ.

Chi họ Tô Khắc xã Quảng Long, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa hiện nay có quê gốc từ Bao Hàm - Hộ Độ (nay là thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) với Thủy Tổ là 2 cụ Tô Huệ Ân và Tô Huệ An. Theo Tô Đại Tông thế phả do cụ Tô Ca họ Tô Bao Hàm viết: Chi họ Tô xã Quảng Long, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa thuộc Phân ngành hai - Chi 4 vào Thanh Hóa từ đời thứ 11  là cụ Tô Nhiên, vợ Nguyễn Thị Nền (tính từ Thủy tổ Tô Huệ An).

Cụ Tô Nhiên và vợ Nguyễn Thị Nền đời thứ nhất họ Tô xã Nông Trường, huyện Triều Sơn sinh hạ được 4  người con trai là Tô Để, Tô Độ, Tô Mưu, Tô Bền (Bình).

Ngày kỵ nhật cụ Tô Nhiên 26 tháng Giêng âm lịch

Ngày kỵ nhật cụ bà Nguyễn Thị Nền 12 tháng Ba âm lịch

Buổi đầu vào Thanh Hóa định cư hai cụ Tô Nhiên và Nguyễn Thị Nền và cụ Tô Ngọc đời thứ 11 ở  tại xã Nông Trường, Huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Sau một thời gian do khó khăn về kinh tế, khí hậu hoặc vì những lý do khác ông Tô Ngọc với ông Tô Để đời thứ 12 trở về Thái Thụy, Thái Bình sinh sống.

Như vậy cụ Tô Nhiên đời thứ 11 của Thủy tổ Tô Huệ An - Bao Hàm là đời thứ nhất họ Tô xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Cụ Tô Độ đời thứ 2. Cụ Tô Độ vợ là Nguyễn Thị Vựa sinh ra được 4 con trai Tô Xuân, Tô Kiên, Tô Phú, Tô Hữu và 3 con gái Tô Thị Chuyên, Tô Thị Lịch, Tô Thị Hảo.

Cụ Tô Độ kỵ nhật ngày 20 tháng Năm âm lịch. Cụ bà Nguyễn Thị Vựa kỵ nhật ngày 5 tháng Hai âm lịch.

Mộ cụ Tô Độ chôn cất phía Nam đồi Nhơm nhìn xuống hồ Tây Hương Sen trước mặt huyện lỵ Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trong phả tộc của chi họ Tô thôn Lộc Xá, xã Quảng Long, huyện Quảng Xương có một số chi tiết hoàn toàn  trùng khớp với phả tộc Tô Đại Tông Thế phả Bao Hàm. Đó là khi cụ Tô Xuân (con đầu cụ Tô Độ) mất đã nảy sinh mâu thuẫn giữa chị dâu Vũ Thị Phát (vợ Ông Xuân) với các em chồng, nên bà Vũ Thị Phát cùng với em chồng là Tô Phú về quê ngoại là thôn Lộc Xá, xã Quảng Long, huyện Quảng Xương sinh sống và lập nghiệp tại đây lập ra chi cả và chi 3 họ Tô, còn chi 2 và chi 4 vẫn ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, nay là xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Tại nghĩa địa thôn Lộc Xá xã Quảng Long, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa có mộ  cụ Tô Xuân bốc cất từ Nông Cống về chôn cùng bà Vũ Thị Phát.

Trước đây khi giỗ Tổ Tô Độ 25 tháng Năm âm lịch con cháu họ Tô xã Quảng Long gồng gánh nhau lên Nông Cống để cúng Tổ. Xét thấy việc đi lại có nhiều khó khăn, hơn nữa chi Họ Tô thôn Lộc Xá, xã Quảng Long, huyện Quảng Xương là chi cả nên họ mạc bàn định thống nhất cúng Tổ Tô Độ tại Lộc Xá, xã Quảng Long, huyện Quảng Xương tại nhà Trưởng tộc Tô Khắc Tuân đời thứ 17 của Thủy tổ Tô Huệ An và là đời thứ 6 họ Tô Lộc Xá, xã Quảng Long tính từ Thế tổ Tô Độ.

Kỵ nhật cụ Tô Xuân đời thứ 3 Họ Tô xã Quảng Long vào ngày 9 tháng Chín âm lịch. Kỵ nhật bà Vũ Thị Phát ngày 15 tháng bảy âm lịch.

Tính từ ngày cụ Tô Nhiên vào lập nghiệp tại xã Nông Trường, Triệu Sơn đến nay đã có 7 đời con cháu gồm có 53 hộ, 265 nhân khẩu trong đó chi nhất thôn Lộc Xá, xã Quảng Long 20 hộ, 100 nhân khẩu; tại 2 chi xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn có 30 hộ, 150 nhân khẩu; tại Thái Nguyên có 3 hộ 15 khẩu.

Nhìn chung con cháu Họ Tô Bao Hàm - Diêm Điền vào lập nghiệp tại xã Quảng Long, huyện Quảng Xương và xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn vẫn phát huy truyền thống dòng họ đoàn kết nghĩa tình, hiếu học, xả thân vì nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã có nhiều người con Họ Tô nêu tấm gương sáng cho nhiều đời con cháu noi theo, trong đó có 5 liệt sỹ tiêu biểu nhất là liệt sĩ Anh hùng lực lượng vũ trang Tô Vĩnh Diện, một mẹ được phong tặng Danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, nhiều người hoạt động trong lĩnh vực quản lý xã hội, đã có 12 người tốt nghiệp đại học

                                                        Tô Khắc Tuân

                  (Đời thứ 17 của Thủy tổ Tô Huệ An, đời thứ 7 Thế tổ Tô Nhiên)