Chi họ Tô làng Nội Tạ, An Hòa, Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng là một chi họ đông nhất trong các chi Họ Tô Vĩnh Bảo. Nội Tạ trước Cách mạng tháng Tám thuộc xã Lý Nhân, tổng Bắc Tạ, phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương.
Chi Họ Tô làng Mai Vĩnh (Vinh Xuân, Phú Vang, thành phố Huế) có một quyển gia phả bằng chữ Hán, được bảo quản trong một hòm sơn son thiếp vàng. Mỗi khi cần mở xem, đều phải làm lễ kính cáo. Có ngôi nhà thờ đã 400 – 500 năm tuổi. Trong nhà thờ và lăng mộ Tổ tiên cũng có nhiều câu đối, đại tự bằng chữ Hán. Nhưng những tư liệu đó chưa có người dịch. Vì vậy con cháu cũng không biết Tổ tiên tên tuổi thế nào, từ đâu đến đây lập nghiệp và đến từ bao giờ. Trong nhà thờ còn có nhiều bằng, sắc; gần đây nhờ dịch thì chỉ biết đó là một số người đỗ đạt, làm quan được phong chức tước, cũng không làm sáng tỏ được gì thêm về nguồn gốc của chi họ.
Theo các cụ cao niên truyền lại và gia phả có ghi tên cụ Thủy tổ là Tô Văn Trình, Tỷ tổ là Mạc Thị Phùng. Các cụ quê gốc Thái Bình đến làng Lưu Hạ lập nghiệp khoảng năm 1413, đến nay xấp xỉ 600 năm. Con cháu dòng họ trưởng thành đi lập nghiệp nơi khác, chưa có điều kiện liên hệ chắp nối được
Khởi tổ của chi Họ Tô làng Hạc Sơn (Châu Sơn, Ba Vì, Hà Nội) là cụ Tô Duy Phẩm. Con cháu ngày nay nghe truyền lại quê quán của cụ là vùng Khổng Châu, Nghệ An, nhưng chưa xác định rõ là huyện, xã nào. Cụ đi chu du khắp thiên hạ, khi đến xứ Đoài thấy làng Hạc Sơn phong cảnh hữu tình đất đai màu mỡ, thiên thời địa lợi, cụ quyết định ở lại làng Hạc Sơn sinh cơ lập nghiệp. Trong nhà thờ có câu “Hệ xuất gia Khổng Châu du gia Hạc Sơn quyết cư”
Đất Thanh Trì xưa kia là Long Đàm. Sở dĩ có tên gọi này vì có một đầm lớn gọi là Đầm Rồng (chữ Hán là Long Đàm). Đầm này có tên khác là Linh Đường và còn có tên là Liên Đàm (Đầm Sen) vì trong đầm có rất nhiều sen. Đầm Rồng là vết tích của sông Tô Lịch đổi dòng. Cạnh đầm (sông Tô Lịch) và cũng cạnh sông Tô Lịch ngày nay có một làng gọi là làng Đại Từ. Còn địa danh Linh Đàm nhiều người nói là từ Linh Đường hoặc Liên Đàm đọc trại ra mà thành.
Tại Nghĩa Trụ, Văn Giang, tỉnh Hưng Yên có nhiều chi Họ Tô: Tô Ngọc, Tô Xuân, Tô Đình, nhưng Họ Tô tập trung nhiều nhất là làng Xuân Cầu, Nghĩa Trụ. Làng Xuân Cầu xưa kia thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Theo gia phả ghi lại thì Họ Tô làng Đại Tài gốc ở làng Xuân Cầu, chuyển cư đến thôn Đại Tài, Nghĩa Trụ.
Theo các cụ cao niên kể lại thì Thủy tổ của chi Họ Tô làng Chánh Đạo, Mỹ Thọ, Phù Mỹ, Tỉnh Gia Lai từ miền Bắc (nghe nói là từ Nghệ An) vào đây lập nghiệp, đến nay khoảng hơn 300 năm. Thủy tổ tên gì không ai còn nhớ.
Gia phả do ông Tô Khắc Nhượng sinh năm 1918 - một nhà nho trong họ ghi bằng chữ Hán. Năm 1998, ông Tô Khắc Nhượng cùng các ông Tô Khắc Thiện, Tô Khắc Thoan sưu tầm tư liệu viết tiếp gia phả bằng chữ quốc ngữ.
Theo thông tin do các cụ cao niên và ông Tô Đạo Mói - Trưởng cành 1 và là Tộc trưởng chi họ cung cấp: Vào giữa thế kỷ 16 có 3 anh em Họ Tô là: Tô Thành Tài, Tô Thành Mai, Tô Thành Chiến từ quê Mạo Lẹng (không nhớ huyện, tỉnh nào) chạy loạn đi các nơi tìm chốn an cư, sinh sống. Khi đi, ông cả đi trước và hẹn các em đến ngã ba Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh gặp nhau qua tín hiệu là cắm một cành cây cảnh ở ngã ba. Nhưng do đường xa, đèo núi, rừng rậm các em của ông cả đến ngã ba Bình Liêu thì không có dấu vết cây cảnh, nên ba anh em không gặp được nhau. Từ đó, mỗi ông đi một nơi.
Họ Tô Hiến xưa kia cũng là Họ Tô Văn. Năm 1946 khi bầu cử Quốc hội, trong xã cũng có một chi Họ Tô Văn khác. Để có sự phân biệt, cử tri Hô Tô Văn này nhất loạt đổi sang Họ Tô Hiến và các đời Tô Hiến nối tiếp đến ngày nay.